Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2014

truyen sex - Rình rập bắt con ma

- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.


- Có chứ, hề là người đều có phần hồn phần doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat  xác, khi chết đi tiền còn phần hồn. Thường thì linh hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì uẩn khúc phần vong hồn mới luẩn quẩn như vậy.


day la noi dung footer


1. Cuộc gặp sáng đầu năm


Sáng mồng một Tết, vạn đánh vật vẫn còn đắm chìm trong sương đêm. Giưã giây lát tinh khôi của ngày đầu năm mới, sư Thiện Pháp muốn đứng một mình, nhắm mắt nhắm mũi hít lấy cái mật ngot của cuộc sống, uống lấy cái tinh túy của sương đêm. Sư như nghe được tiếng trở mình của gió qua lá cây, tiếng nỉ non của cụ già hát xẩm lẩn khuất ở ngoài gốc cây Gạo vọng lại lúc xa lúc gần.


Ngày đầu năm, ai cũng mong cử sự thật an lành, man di việc đều hanh thông thuận lợi, chẳng ai muốn rước điềm xui, điềm rủi vào mình. Nhưng phàm là con đứa ở đời, có gặp họa mới thấy cái may mắn ngắn chẳng tày gang, có đạt được niềm vui sau họa mới biết quý, biết giữ gìn. Nhưng mà ít ai nhận ra được điều đó, ai cũng sử dụng man di cách để đạt được niềm vui, để thỏa mãn cái nhu cầu của bản thân. Đó là điều động mà Phật đã răn bảo từ lâu, trăn trở từ lâu.


Nén tiếng thở dài, không muốn phá vỡ cảm giác nhẹ nhàng, thoải mái của doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat ngày đầu năm, sư Thiện Pháp khua từng tiếng thanh hao thật nhẹ, gom từng chiếc lá về góc sân, châm một mồi lửa. Bập bùng cháy một hồi, đám lá đồng cân còn lại dúm tro trên nền đất xám xịt, mọi thứ rốt cục cũng quay về cát bụi mà thôi.


Nhấm ngụm nước chè ngọt chát, sư gióng ba hồi chuông rồi tiến ra tuyệt vời điện vãng cảnh chùa. Người đi chùa lễ Phật cũng tiền lác đác, ai cũng rầm rì khấn vái, xì xụp cúi lạy, chắc chẳng có gì hơn ngoài việc cầu cho một năm mới thuận lợi, vạn sự như ý, gia cảnh toàn tài, sức khỏe đến nhanh. Trên đại điện ánh hào quang quẻ của Bổn sư thích ca sáng cả một vùng, một nụ cười nhẹ nhõm trên khuôn mặt người, thấy thật ấm, thật an nhiên.


Sư Thiện Pháp trông thấy một cô gái mặc bộ bà ba, cổ đeo chiếc dây dưa chuyền có hình Quan Âm lấp lánh, nãy giờ đứng trước tượng Thích ca rất lâu, mắt không hề chớp, cũng chẳng quỳ lạy khấn vái như những Phật tử ở kia. Sư thấy lạ, giữa người thiếu nữ và Đức Phật có cuộc trò chuyện không lời nào chăng?


Bất chợt, cô gái chắp tay vái một lạy rồi tách khỏi đoàn người, tiến thẳng vào khu nhà vườn sau tuyệt điện. Dặn dò các môn đồ vài điều, sư Thiện Pháp lui ra sau phía sau, kiếm tìm cô gái. Sư lắng nghe nghe một hồi, nhận thấy có tiếng khóc ở phía gốc Si đằng trước, giữa quang cảnh thanh vắng, tiếng khóc nổi lên nghe ai oán não nùng, sư Thiện Pháp chong đèn tiến về phía trước.


- Người ta nói có chuyện buồn đến mấy thì ngày đầu năm cũng nên nén những giọt nước mắt. Ắt hẳn bố thí chủ phải có chuyện gì rất buồn? - sư Thiện Pháp cất tiếng hỏi khiến cô gái giật thột quay lại.


- Mô phật, thưa bạch thầy, con có gì giả mạo phạm đến nhà chùa hi vọng bạch thầy rộng lượng xá cho! - cô gái nói đứt quãng, vẫn còn vẻ sợ sệt như thường.


Sư Thiện Pháp cười lớn, có cảm nhận như mái ngói rêu mốc trên chái bếp cũng rung theo tiếng cười của sư:


- Nhà Chùa thường xuyên mở cửa Phật với mọi chúng sanh, nếu bố thí chủ thấy khóc mà nhẹ lòng hơn, tĩnh tâm hơn thì không có khuyết điểm gì.


- Bạch thầy không hỏi con vì sao lại ngồi khóc ở nơi này sao?


- Vạn vật đều có căn nguyên, nếu thí chủ muốn giãi bày, ắt hẳn bố thí chủ sẽ lên tiếng. Đâu cần bổn tọa mở lời!


Tiếng sư Thiện Pháp nhẹ nhàng, lúc trầm lúc bổng khiến cô gái vẫn còn chút e sợ.


Lau vội giọt nước mắt, cô cúi chào sư rồi quay lưng ra cổng, mới thông thoáng đó đã không thấy nữa.


Sư Thiện Pháp tắt đèn, ngẩng người nhìn theo rồi lắc đầu, chừng như nữ bố thí chủ này có điều động gì u uất đến cực đỉnh thì khóe mắt mới ánh lên cách nhìn như vậy. Phàm là cớ gì thì mang một nỗi tâm can như vậy trong lòng cũng không hay.


Bát giác sư thấy lạnh run người, ngày đầu năm đâu có những đợt gió chướng như vậy. Một cảm giác lạ lùng xâm chiếm tâm khảm của sư, sư Thiện Pháp mộng hồ lúc ở gần cô gái cũng cảm nhận được mỗi cái lạnh đến u uất này.


...


2. Khúc sông làng Bích


Buổi chiều nghỉ chân ở quán nước dưới gốc cây gạo, sư Thiện Pháp uống vội ngụm nước chè rồi trầm tư mặc tưởng nghe tiếng xẩm của cụ Bảy. Những người lang thang, dáng dấp lữ hành thường giỏi một ngón nghề gì đấy. Cụ Bảy cũng thế, không ai biết cụ đến làng này từ bao giờ, chỉ biết cụ đã ngồi hát xẩm và cố gắng với con đò của mình lâu lắm rồi, đặc biệt ngón đàn và cái giọng trầm đục nỉ non của cụ thì ai nghe cũng chờn. Tiếng hát xẩm của cụ Bảy khiến sư Thiện Pháp bất động hồi lâu, cảm giác những dính líu tâm thần như thắt lại, từng lông măng bày đặt cả lên.


Cụ Bảy ngừng lại ngước đôi mắt về phía sư bật cười:


- Sư thầy đi hóa duyên về đó hử?


- Bẩm cụ thưa vâng, tiếng đàn cụ hay quá!


- Sư thầy không biết, trong đàn cũng có linh hồn phách, mình ve vuốt cưng nựng nó thì nó mới chịu cho mình cái tiếng nó trong thế. Cây đàn này cố với tôi lâu lắm rồi, nhiều khi nó là con, là bạn, là tri kỉ từ hồi nào tôi chẳng biết nữa.


Sư Thiện Pháp gật gù, mời cụ chén nước chè rồi cả hai ngồi đàm đạo.


Bà Bổi ngoe nguẩy cái quạt phá tan cuộc chuyện trò của hai người:


- Độ rày có ai mời sư thầy đi tụng kinh, cúng quẩy gì không?


Sư Thiện Pháp đang dở chuyện, ngẩn người tớp lại:


- Không bà ạ, trong chùa nhà ai có đám hiếu hay có lễ lược gì đấy thì mời nhà chùa đi thôi. Những việc cúng quẩy, cúng tế chúng tôi không nhận.


Nhổ phịt ngụm trầu đỏ tươi như máu, bà Bổi đon đả:


- Thế hử, tôi là tôi hỏi thế thôi, bởi độ rày tôi nghe khúc sông dưới xóm Bích nhiều người đuối nước lắm, từ giêng đến giờ mới có ba tháng, vậy mà đã "đi" những bốn người rồi. Khúc sông ấy bấy nay vẫn tắm giặt bình phẩm thường, từ ngày đó đến giờ vắng tanh, trông càng u ám.


Đột nhiên bà Bổi quay sang cụ Bảy hỏi khẽ:


- Cụ hay chèo qua khúc sông ấy, thế có biết nguyên nhân ấy làm sao không?


Cụ Bảy vẫn hướng đôi mắt trầm đục của mình ra xa, im lặng một hồi. Thế rồi trong cổ họng cụ từng chữ bật ra như có ai đang bóp nghẹn :


- GIEO NHÂN GÌ THÌ GẶT QUẢ ĐẤY


Cái quạt trên tay bà Bổi dừng hẳn, mấy người khách ngồi quanh cũng xúm hết cả lại, một người cất tiếng:


- Cụ nói thế là ý gì hả cụ?


- Tôi nói xàm đấy, man di người đừng để ý, cái gì cũng có cái lý của nó, tôi đoán chắc có gì uẩn khúc trong chuyện này thành ra nói bừa vậy thôi. Mọi người cứ nghỉ, tôi đi đây.


Xếp lại hộp đàn, cụ Bảy bỏ đi dưới ánh mắt ngơ ngác của man di người. Đợi cụ đi khuất, bà Bổi chép miệng:


- Có nguyên do gì thì cũng mong đừng có ai bỏ đời dưới đáy sông đó nữa. Tội nghiệp, lạnh lẽo lắm, cô đơn lắm.


Sư Thiện Pháp nãy giờ trầm ngâm. Dáng điệu và cả câu nói của cụ Bảy không phải bật ra một cách thiên nhiên như vậy. Vốn dĩ xưa nay cụ kiệm lời và kĩ tính lắm, đâu dễ nói bừa ra một câu như vậy.


Trả tiền nước cho bà Bổi xong, sư giục hai chú tiểu theo phụ mình sửa soạn tay đẫy về chùa.


Thoáng chốc, bóng của ba sư đồ đã khuất sau rặng tre. Mặt trời ơi sắp lặn quét một màu đỏ ti tỉ kéo dài đến tận khúc sông cuối làng Bích. Nhìn về hướng ấy bây chừ nom rợn hết cả người, tiếng mấy con vạc đi ăn đêm vọng lại càng khiến ai nhìn cũng chả dám nhìn lâu.


3. Tiếng khóc ở dốc Miếu Đôi


Lão Trì đi thả vó ở mé sông từ chập tối, đó là thời khắc ưng ý nhất của lão, đố ai trông thấy lão đi thả vó ban ngày. Ra cái chòi ngoài bãi sông, lão Trì lầm lụi chôm chôm rồi thắp điện bằng cái mô tơ đem theo để nhử mồi. Rít điều thuốc lào cho ấm bụng, lão ngồi ngơ ngẩn ngó ra mặt nước loang loáng ở đằng xa.


Cái bụi tre ở rìa sông chẻ ra làm hai như chỏm tóc đứa trẻ thơ lên ba nom thật dị thường. Hôm nay trúng đêm rằm, trăng sáng vặc vặc chiếu xuống mặt sông thật đẹp. Lão Trì phê thuốc ngồi nhẩm nha mấy câu ả đào:


"Hiên thì lấp ló trăng tròn. . gió vàng hiu hắt như khuân mặt sầu...niềm tâm sự thấp cao mọi rợ lẽ. . tình cảnh này biết kể cùng ai"


Giọng lão Trì rền rĩ nghe câu được câu mất. Lão thẫn thờ nhìn trời, nhìn sông thấy cảnh như trong thơ ấu Lý Bạch. Lão hồi nhỏ cũng đi học, rồi cái đói cái nghèo khiến lão bỏ ngang dẫu cho lão học cũng không đến nỗi tệ, lão cũng biết đâu bài bài thơ Đường, rồi ấu thơ Lý Bạch, Đỗ Phủ.... để giắt lưng đọc chơi. Lão văng tục:


- Mẹ kiếp, cái chốn tiên cảnh thế này mà tiên sư đứa nào kháo chuyện bậy bạ.


Từ độ chưa có câu chuyện mà mọi người bàn tán kia, khúc sông này buổi tối tấp nập lắm. Ngoài lão Trì đi thả vó ra còn mấy đứa nhỏ đi soi ếch với chiếc đèn pin nhỏ xíu, chúng hay lên chòi lão chơi, ngồi nghe lão kể chuyện bên Tây bên Tàu, vậy mà nay vắng tiệt , đố có đứa nào léo hánh đến khúc sông này. Lão Trì hoá buồn thúi ruột, chả biết chuyện trò với ai. Ngẩm nga thêm tí tị nữa, lão ngủ sớm để khuya dậy kéo vó.


Cái tiết trời đất tháng năm nóng hừng hực thế mà giờ lạnh buốt, từng cơn gió cứ thốc vào mái chòi của lão Trì từng đợt từng đợt. Lão kéo chiếc chăn che kín chân rồi mà vẫn lạnh. Chửi đổng vài câu, lão lọ mọ dậy châm điếu thuốc ngồi ngáp ngắn ngáp dài. Trong bóng đêm mịt mờ kia, điếu thuốc lão Trì đỏ rực, nhập nhòe như mấy con ma đuốc. Lão chả sợ cha nội con nhà ma nào, từ thuở cha sanh mẹ đẻ đến giờ, đi đêm đi hôm lão chả biết con ma nó hình thù ra làm sao, có đáng sợ như dân gian đồn hết sức không, mà nếu có chắc lão cũng hù cho nó chạy té khói. Nghĩ vậy, lão cười.


Bất chợt, lão nghe vẳng lại tiếng khóc từ phía dốc Miếu Đôi, trước tiên là nghe thưa thớt sau đó rõ dần rồi rít lên từng chặp nghe ai oán não nề. Hẳn như người khóc có chuyện gì buồn đến thảm thương thiết thì tiếng khóc mới thê lương bổng như vậy. Lão Trì dỏng tai nghe, có tiếng phụ nữ rồi cả tiếng trẻ thơ nữa. Quái lạ, khuya vầy rồi ai còn dắt con đi chơi nữa chứ. Tiếng khóc vọng lại mỗi lúc một rõ, nghe rờn rợn.


Cho chiếc ghe tấp vào bờ, lão Trì tiến lại gần cái miếu dốc Đôi. Cái miếu này bỏ hoang đã lâu, đồng cân thắp mỗi cái bóng đèn hạt lựu đỏ choét nhìn là muốn bỏ chạy. Từ khi trời ơi chập choạng đã chẳng thấy ai dám bén mảng ra chốn này.


Lão Trì mỗi lúc mỗi gần dốc Miếu hơn, bây chừ đồng cân nghe tiếng khóc của phụ nữ, còn đứa trẻ mỏ lại nghe cười, tiếng cười của con nít mà lão Trì nghe thấy tiếng cười này nó quái thai như thế nào ấy:


Huuuuuu...ư.... ư.... . ư.........Há há.... . Há.......


Lão Trì nhìn vào miếu chả thấy có ai, theo tiếng cười lão ra bờ tường gần gốc mít. Lão nom thấy có ai ngồi đó, bên cạnh là đứa trẻ mỏ chắc mới đồng cân lên hai, loã lồ đầu không một cọng tóc.


Giữa đêm khuya khoắt thế này mà lại dẫn con đi chơi rồi ngồi khóc thế này, chắc lạc đường, khổ nghiệp-lão Trì chép miệng.


- Chị gì ơi, nhà ở đâu thế, bị lạc hả, trời ơi lạnh thế này sao không mặc quần áo cho cháu?vừa hỏi lão Trì vừa tiến lại gần.


Đứa trẻ con dứt cười hẳn, quay ngoắt lại nhìn Lão Trì, vừa chạy đến lão vừa kêu lớn:Áo, áo cho tao.


Tức thì người phụ nữ kia cũng ngẩng đầu lên, nửa mái tóc che khuất khuôn mặt tiền vỡ lở cặp mắt sáng như dao cạo, nói với theo đứa bé:


- Được thì xin ông ta theo mẹ con mình thường xuyên con ơi, há há há há....... .


Tiếng cười của người đàn bà khiến lão Trì thất kinh, cái lời thề dọa cho ma chạy té khói cuả lão biến đâu mất, lão chỉ kịp rú lên rồi chạy trối chết về phía nhà ông Toản.


Ông Toản đang ngủ chiêm bao màng nghe có ai hò hét rồi đập cửa ầm ầm, tưởng trộm liền vùng dậy vơ vội cây đòn gánh rồi mở cửa đánh mạnh vào đầu cái bóng đen đang đập cửa kia. lão Trì chỉ kịp kêu Ối một tiếng rõ to rồi ngất xỉu. Ông Toản chủ tâm một hồi mới thắp đèn soi rõ mặt cái thằng to gan kia là ai, té ra là lão Trì.


Lão Trì ngất xỉu một chặp thì tỉnh dậy, cũng may ông Toản tuổi cao thành ra sức đánh không mạnh lắm, nhưng cũng kịp để nguyên một quả cam lên đầu lão Trì. Nghe lão Trì kể hết chuyện, cả hai cùng thằng con giai lớn ông Toản đốt đèn ra cái dốc Miếu. Lão Trì vừa đi vừa run, tay bám chặt chịa ông Trọng, trong đầu còn nhớ đến hai cái khuân mặt hãi hùng kia.


Trong miếu vắng tanh, chỗ gốc mít chỉ còn một ít chỉ vàng mã và áo binh đã nhàu nát, chẳng thấy mẹ con kia đâu cả. Nhưng như thế cũng đủ khiến cả ba chợn người.


Chờ một hồi không thấy động tĩnh gì, ai về nhà nấy. Lão Trì chèo mạnh chiếc ghe ra phía chòi, gắng tránh càng xa cái miếu càng tốt. Nhấc thử cái vó, lão thấy nằng nặng. Cái sợ hãi nó biến đâu mất, lão chắc mẩm phen này trúng đậm mẻ cá lớn. Hì hục một hồi lão cũng cất cái rớ lên được, rọi đèn vào giữa lưới, một lần nữa da mặt lão y sì như lúc hồi nãy gặp hai mẹ con ở dốc Miếu đôi. Trong lưới có người, mùi hôi thối bốc ra khiến lão Trì ói ngay tại chỗ.


4. Bắt ma


Cái tin lão Trì ngay một đêm vừa gặp ma, vừa rớ được người khiến cái làng Bích vốn yên bình nay nháo nhào lên hết cả, không ầm ĩ sao được khi lắm chuyện lớn như vậy xảy ra. Công an đến nhà giam nghiệm bảo cha Thắng trưởng thôn nhậu say về rồi té ngã chết trôi dưới sông, bít tất cả đơn thuần đồng cân là một tai nạn. Nhưng dân làng Bích ai mà tin, mười người hết mười một người cho rằng cha Thắng tắt thở cho ma dìm, nói như vậy để thấy cái nỗi sợ hãi đã bao phủ lên cả làng. Cha Thắng trưởng thôn tắt nghỉ đồng nghĩa với việc xuất hiện cái thi thể thứ năm trong vòng bốn tháng. Khúc sông đó đã vắng vẻ nay chả thấy một bóng người, cái đèn neon trong cái chòi của lão Trì cũng tắt ngúm, dường như lão cho qua làng khác rồi.


Tụi trẻ mỏ trong xóm được trạng thái sớm khuya hát mấy bài vè, vừa hát mắt vừa lấm lét: Nghe vẻ nghe ve, nghe vè ma nước, một ông tắt thở trước, kéo cả mấy ông, người thì tăng xông, kẻ thì ăn nhậu, mặt ai cũng xấu, dúm dó nhăn nheo, chắc hẳn ma theo, mẹ con xin áo.... .


Quán nước bà Bổi mấy ngày này khách đến nhộn nhịp cả lên, ai cũng đến ngóng xem câu chuyện thực hư thế nào. Bà Bổi tay rót nước miệng cứ đon đả, ra điều động bí hiểm:


- Ghê lắm danh thiếp bác ạ, nó kéo năm mạng rồi, có lão chôm chôm làng em còn bị nó dọa cho nát vía, bỏ làng đi mất đấy.


Đám đông càng nghe càng xôn xao, thần sắc ai cũng toát lên vẻ sợ hãi. Trong đám người ngồi uống nước bất bỗng nhiên có tiếng the thé vang lên:


- Hai vong này cũng dễ bắt.


Mọi ánh mắt đổ dồn về phía người vừa nói, là lão Ánh thầy cúng. Bà Bổi nhanh nhảu:


- Này, đừng có khoác, có giỏi ông đi bắt hai cái vong ấy về đây, cả làng này góp tiền thưởng ông.


Vuốt chỏm râu không lấy gì làm đẹp của mình, lão Ánh cười gằng:


-  Cả làng cứ chung đồng cân để đó, tối nay ra dốc Miếu coi tôi bắt hai cái vong đó chơi. Nói đọan, lão đứng dậy bỏ đi thẳng.


Cả đám đông lại xầm xì thêm, ai cũng bán tín bán nghi. Chỉ có một người tách khỏi đám đông lầm lũi tiến ra chiếc ghe, khua mái chèo về phiá khúc sông làng Bích, là cụ Bảy. Từ giữa sông từng câu hát cụ xa dần nghe ai oán, não nề:


Kìa mây đi mất, chim về núi sầu, thuyền đưa đủng đỉnh, chàng đâu chàng đâu.... .


Vừa chập tối nhà ai cũng đóng cửa, tiếng rằng đóng cửa nhưng ai cũng ngóng về phía dốc miếu Đôi coi lão Ánh bắt ma ra làm sao. Mấy đứa con trẻ to gan hơn, vừa chạy theo lão Ánh vừa hát vè. Lão Ánh tối nay mặc một đồ vàng chóe hệt như Lâm Chánh Anh trong phim cương thi, đồng cân khác là một bên phim ảnh, một bên đi bắt ma thật.


Lão Ánh bắt đầu bày đồ lễ ra giữa miếu, mấy ngọn nến vàng uột thắp sáng trưng cả miếu hòa lẫn cái màu đỏ vô kể của đèn khiến không gian thêm kì bí. Lão đặt giữa bàn một cái chậu thau có thứ nước sền sệt, bốc lên một mùi tanh lợm họng, chắc có nhẽ là máu chó mực.


Viết vẽ máy hình rồng rắn lên mấy tấm bùa, lão bắt đầu làm phép. Một tay khua chuông, một tay cầm kiếm gỗ, lão hú hét những thứ tiếng gì chẳng rõ, thỉnh thoảng lại vơ một nắm gạo ném về phiá gốc mít, la lớn:


Ma, cút đi khỏi cây


Xuất vong khỏi đây


Trông cách điệu của lão Ánh, mấy đứa con trẻ bụm miệng cười khúc khích chứ không dám cười lớn. Dân làng thì ai nấy dỏng tai lên nghe, cố căng mắt nhòm về phía dốc Miếu dẫu tiền thấy màn đêm đen đặc và thứ ánh sáng yếu ớt từ ngọn nến và chiếc đèn hột lựu.


Cả thau máu chó bị lão Ánh hắt mạnh về phía gốc mít. Đột nhiên, từ gốc mít khói bốc lên mù mịt, có tiếng gầm rú thật kinh hoàng, ai nghe cũng phải bịt tai. Một cái bóng trắng nhờ ở giữa thân cây, quắc đôi mắt đỏ ngầu về phía lão Ánh, một cái nhìn quằn quại, đầy sự hận thù.


Lão Ánh đớ người, vừa ném gạo vừa la hét mấy thứ tiếng cổ nhưng có vẻ không ăn thua. Con ma vẫn ở đó, rũ rượi, thè chiếc lưỡi dính líu đầy máu chó mực quét xuống tận đất.


Can dù rằng lão Ánh dung để phun lửa bất ngờ hắt thẳng vào người lão, một tiếng Ùm vang lên. Người ta nghe tiếng lão Ánh quằn quại, giãy giụa. Lão bây chừ như một bó đuốc sống, chạy mấy bước rồi ngã quỵ, mấy đứa trẻ em thất sắc, la lớn bỏ chạy khiến người dân túa ra đông vỡ chợ.


Khi chạy đến nơi, lão Ánh tiền còn một giúm, đen sì, bốc khói. Trên cây mít cũng chẳng còn ai.


Ở bến đò, cụ Bảy ngồi đờ đẫn nhìn đám đông túa ra dốc Miếu đôi. Cụ biết chuyện này thế nào cũng xảy ra. Vuốt cây đàn nhị, lão lại ngồi hát, những câu hát về phận người đầy bi ai.


day la noi dung footer


5. Chìa khóa


Sư Thiện Pháp vừa ngồi uống nước chè, vừa ngẫm lại mọi rợ sự đang diễn ra ở trong làng. Bây giờ tối đến chẳng ai dám ra đường, trẻ em bị bắt ở yên trong nhà, khúc sông làng Bích giờ như vô chủ, hoang tàn , lạnh lẽo. Có vẻ chỉ còn cửa chùa là nơi khiến người ta cảm thấy yên tâm nhất.


Chú tiều lẽo đẽo chạy vào rót thêm nước sôi vào ấm, cắt ngang dòng suy nghĩ của sư.


- Con cứ để đó cho thầy.


- Bẩm thầy, nãy giờ có cụ Bảy ngồi chờ xin gặp thầy trước cửa chùa, con tính báo nhưng thấy thầy đang ngồi ngẫm nên.... .


- Sao không nói sớm, con ra mời cụ vào ngay cho thầy - sư Thiện Pháp vội vã.


Cụ Bảy ôm cây đàn chậm rãi tiến vào góc sân vườn chùa. Rót chén nước chè mời cụ Bảy, sư vẫn không giấu giếm nổi vẻ hoài nghi. Cụ Bảy không nói gì uống cạn chén nước, sư Thiện Pháp lại rót đầy cho cụ, cụ lại bưng lên uống khảng khái. Đặt chén nước chè còn ứ đọng ấm hơi xuống, cụ Bảy ôn tồn:


- Chắc sư thầy có nghe chuyện ma quỷ của làng ta.


- Bẩm cụ, tôi có. Thú thật, tôi cũng đang phiền bởi chưng chuyện ấy đây, cụ biết cửa chùa thanh tịnh một lòng mở của từ bi xóa bỏ khuyết điểm lầm. Phàm có chuyện gì cũng đều nhân ái bỏ qua, oan linh hồn thực chất mà nói cũng chỉ là bởi oán khí tích tụ mà nên. Tôi thiết nghĩ hồn này kiên cố có chuyện oan trái, ngặt một nỗi nhà chùa chưa trạng thái hóa duyên dẫn giải ngộ cho nó được.


- Sư thầy cũng tin có ma quỷ? - cụ Bảy hỏi giọng chắc nịch.


- Có chứ, hề là người đều có phần vong hồn phần xác, khi tắt nghỉ đi tiền còn phần hồn. Thường thì hồn sẽ sang đầu thai làm kiếp khác, nếu không thì có chuyện gì uẩn khúc phần linh hồn mới luẩn quẩn như vậy.


Nén tiếng thở dài, cụ Bảy vừa nhìn xa vừa nói:


- Chuyện cũng là vì chưng tôi. Cách đây bốn tháng, vào chiều mùng một Tết khi đó tôi đang câu cá ở mé sông thì thấy đằng xa có một cô gái đi thẳng đến chỗ tôi, nhờ tôi chở sang sông. Lúc đó đã chiều, trời đất ơi đã gần tối, lại thấy sắc mặt cô gái có vẻ không tốt nên tôi sinh nghi, chưa ra đò vội. Gặng hỏi mãi thì cô ấy mới khóc, một hồi vừa khóc vừa kể cho tôi biết cô lỡ yêu một thằng gia tộc Sở. Tên này sau khi khoắng sạch số phận đồng cân cô tích cóp được thì trốn biệt, còn để lại một đứa bé trong bụng cô. Nhục nhã, ê chề, cô đi lang thang đến làng ta thì gặp tôi, nhờ tôi đưa sang sông. Lúc ấy, tôi tôi cũng chủ quan, nghĩ cô chưa ăn gì nên an ủi vội mấy câu rồi bảo cô ngồi chờ, tôi lên quán bà Bổi xem còn thứ gì ăn được thì mang xuống cho cô ấy. Ngờ đâu lúc trỏ xuống đã thấy chiếc đò của tôi ở giữa sông, biết có sự chẳng lành tôi mượn tạm thời chiếc ghe lão Trì chèo ra đến nơi thì không thấy cô ấy đâu, trên đò tiền còn mẩu giấy kể tội nghiệp kẻ bội bạc kia và nhờ tôi giữ hộ một vật. Sư thầy không biết chứ tôi đã lặn mò suốt cả đêm ấy mới thấy được thi hài cô ấy. Ngày đầu năm, không muốn dân làng xôn xao, tôi đem cô ấy chôn tạm thời vào gốc mít rồi nhang khói cho cô ở Miếu dốc đôi, ngờ đâu bây chừ cô ấy quấy quá.


Sư Thiện Pháp trầm ngâm, giờ thì sư đã rõ mọi rợ chuyện. Sư không ngờ ở cái làng bé nhỏ này lại tồn tại một câu chuyện mang kết cục thảm như vậy. Như đột nhiên nhớ ra điều động gì, sư Thiện Pháp sốt sắng hỏi cụ Bảy:


- Cụ còn giữ đánh vật đó không?


Cụ Bảy lần mấy lớp áo đưa ra một vật, Sư Thiện Pháp trông thấy giây lát kinh hãi. Sư hỏi dồn dập:


- Có phải cô gái đó mặc áo bà ba màu hồng, cắt tóc ngắn, khoảng 25 tuổi phải không cụ?


Đến lượt cụ Bảy ngớ người:-sư thầy cũng biết cô gái đó?


Làm sao sư Thiện Pháp quên được nụ cười buồn, cái ánh nhìn chất chứa cả thương đau và đầy thù hận của cô gái đó chứ. Nhìn xuống chiếc dây dính chuyền bạc lấp lánh, sư thở dài, đánh vật còn đây mà người đã ra thiên cổ.


- Tối nay cụ đi với tôi ra đó - sư nói chắc nịch, vẻ mặt không chút e dè.


Dốc Miếu đôi mới hơn tám giờ đã heo hút, vắng lạnh rợn người. Mấy nhà xung quanh cũng tránh đi đâu mất, phải khó khăn lắm sư Thiện Pháp và cụ Bảy mới chong đèn đến được đây, giữa cái nơi mà màu đen của màn đêm và tiếng ếch nhái đang làm chủ nơi này.


Cắm bó nhang đỏ rực xuống gốc mít, sư Thiện Pháp rì rầm đọc mấy bài Kinh Địa Tạng, Cầu Siêu, sắc mặt nghiêm trang. Cụ Bảy đứng bên, tay vân vê điếu thuốc lào đỏ rực, tha thẩn nghe mấy lời kinh kệ.


Hồi lâu, sư dừng lại, khấn rõ to chủ yếu để cho cả cụ Bảy chứng kiến:


- Nữ thí chủ, ta và thí chủ có duyên gặp nhau nhưng không có duyên giác ngộ, đó cũng là khuyết điểm lớn bởi vì ta mà ra. Phàm là tăng ni thì phải mở cửa từ bi, lắng tai man di điều chúng sanh giãi bày. Ấy vậy mà ta sơ suất, không biết được nữ bố thí chủ có một nỗi tâm can lớn như vậy. Nay việc đã rồi, cớ sao thí chủ còn chưa siêu thoát. Gieo nhân dịp nào gặt quả ấy, kẻ bội nghĩa kia rồi cũng sẽ bị báo ứng. Thí chủ đừng canh cánh thằn lằn cừu hận mà làm tắt nghỉ bao người vô tội, sinh linh trong bụng thí chủ cũng cần cơ hội đầu thai làm người. Nay bần tăng mạn phép cùng cụ Bảy đây đem tro cốt yếu của bố thí chủ an táng trong chùa, hi vọng bố thí chủ sớm siêu thoát, bất tất phải ở chốn đây làm ma hại người. Nếu bố thí chủ đồng ý, thì xin làm bó nhang cháy sáng lên ba lần cho chúng tao được rõ.


Lặng đi hồi lâu không thấy có động tĩnh, cụ Bảy tính chất lên tiếng thì sư Thiện Pháp ngăn lại:


- Nữ bố thí chủ, lời của bần tăng bố thí chủ nghĩ chưa thông suốt sao.


Một sự im ắng đến lạ thường, cụ Bảy nghe dòng máu trong thân thể mình như đang chảy mạnh hơn, cả cụ và sư Thiện Pháp đều nín thở.


Bất bỗng có tiếng hét nghe đến xé lòng từ trên cây mít vọng xuống, liền ngay tức khắc bó nhang cháy rực lên ba lần rồi tắt ngấm. Sư Thiện Pháp nhắm mắt đọc kinh, nói vọng qua cụ Bảy:


- Cụ thực hiện được rồi.


Nhờ có lời dẫn giải thích của sư Thiện Pháp và lời kể của doc truyen sex, truyen heo, truyen dam moi nhat cụ Bảy, dân làng mới rõ và tiếc thương cho cô gái áo hồng kia. Khúc sông bắt đầu có người qua lại, đã lâu cũng không còn thấy ai nộp mạng trên đoạn sông này. Người lớn, trẻ em hớn hở ra mặt, đồng cân có bà Bổi là buồn tí đỉnh bởi vì lượng khách đến hóng chuyện sụt giảm. Tuy vậy, ấn tượng về câu chuyện và hai vong vong linh cũng khiến cho dốc miếu Đôi vắng vẻ và hoang tàn đi nhiều, sự lạnh lẽo vẫn còn bao phủ nơi đây.


Nhật Hoàng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét